Thông tin sản phẩm
1. Thành phần của Cyclo - Progynova
Mỗi viên bao đường màu trắng chứa 2 mg Estradiol valerat
Mỗi viên bao đường màu nâu nhạt chứa 2 mg Estradiol valerat và 0,5 mg Norgestrel.
Tá dược: Lactose, Tinh bột ngô, Povidon 25000, Talc, Magnesi stearate, Sucrose, Povidon 700000, macrogol 6000, Calci carbonat, Sáp Montanglycol, Glycerol 85%, Titani dioxyd, Oxit sắt vàng, Oxit sắt đỏ.
Mỗi viên bao đường màu nâu nhạt chứa 2 mg Estradiol valerat và 0,5 mg Norgestrel.
Tá dược: Lactose, Tinh bột ngô, Povidon 25000, Talc, Magnesi stearate, Sucrose, Povidon 700000, macrogol 6000, Calci carbonat, Sáp Montanglycol, Glycerol 85%, Titani dioxyd, Oxit sắt vàng, Oxit sắt đỏ.
2. Công dụng của Cyclo - Progynova
Liệu pháp hormon thay thế (HRT) được dùng để điều trị cho các bệnh nhân có hội chứng thiếu estrogen do mãn kinh tự nhiên hoặc giảm năng tuyến sinh dục, cắt bỏ hoặc suy buồng trứng nguyên phát ở những bệnh nhân còn tử cung.
Ngăn ngừa chứng loãng xương sau thời kỳ mãn kinh.
Điều chỉnh vòng kinh bất thường.
Điều trị chứng vô kinh nguyên phát hoặc thứ phát.
Ngăn ngừa chứng loãng xương sau thời kỳ mãn kinh.
Điều chỉnh vòng kinh bất thường.
Điều trị chứng vô kinh nguyên phát hoặc thứ phát.
3. Liều lượng và cách dùng của Cyclo - Progynova
Nên dừng các phương pháp tránh thai dùng hormon khi bắt đầu điều trị bằng hormon thay thế và nên áp dụng các biện pháp tránh thai khác nếu cần thiết.
Bắt đầu sử dụng Cyclo-Progynova như thế nào:
Nếu bệnh nhân vẫn còn có kinh nguyệt, nên bắt đầu điều trị từ ngày thứ 5 của chu kỳ (Ngày đầu tiên có kinh sẽ tính là ngày thứ nhất của chu kỳ).
Các bệnh nhân đã hết kinh hoặc có vòng kinh không đều hoặc các bệnh nhân sau mãn kinh có thể bắt đầu liều điều trị bất cứ lúc nào, không được dùng cho phụ nữ có thai.
Liều dùng: Viên thuốc màu trắng được uống hàng ngày trong suốt 11 ngày đầu tiên, uống tiếp viên màu nâu nhạt trong 10 ngày sau. Sau thời gian 21 ngày uống thuốc sẽ ngừng uống trong 7 ngày.
Cách dùng: Mỗi vỉ thuốc sẽ dùng cho 21 ngày điều trị. Vỉ thuốc Cyclo – Propynova mới nên bắt đầu vào cùng ngày với tuần trước đó sau khi ngừng uống thuốc 7 ngày. Nên uống nguyên viên thuốc với một ít nước. Nên uống thuốc vào một thời điểm cố định hàng ngày.
Nếu quên uống thuốc:
Trong trường hợp quên uống thuốc, cần uống ngay viên thuốc quên đó càng sớm càng tốt. Nếu nhiều hơn 24 giờ, không cần uống thêm viên thuốc nào khác ngoài viên thuốc đã quên. Nếu quên uống thuốc trong vài ngày, hiện tượng chảy máu kinh nguyệt bất thường có thể xảy ra.
Hiện tượng ra máu của chu kỳ kinh nguyệt thường xảy ra trong 7 ngày ngưng uống thuốc, có thể một vài ngày sau khi uống viên thuốc cuối cùng.
Các nhóm đối tượng đặc biệt:
Trẻ em và trẻ vị thành niên: Cyclo – Progynova không được chỉ định cho trẻ em và trẻ vị thành niên.
Bệnh nhân cao tuổi: Không có dữ liệu cho thấy cần điều chỉnh liều ở bệnh nhân cao tuổi.
Bệnh nhân suy gan: Cyclo – Progynova chưa được nghiên cứu riêng trên bệnh nhân suy gan. Chống chỉ định sử dụng Cyclo – Progynova cho phụ nữ có bệnh gan nghiêm trọng.
Bệnh nhân suy thận: Cyclo – Progynova chưa được nghiên cứu riêng trên bệnh nhân suy thận. Các dữ liệu hiện có cho thấy không cần điều chỉnh liều thuốc ở đối tượng bệnh nhân này.
Bắt đầu sử dụng Cyclo-Progynova như thế nào:
Nếu bệnh nhân vẫn còn có kinh nguyệt, nên bắt đầu điều trị từ ngày thứ 5 của chu kỳ (Ngày đầu tiên có kinh sẽ tính là ngày thứ nhất của chu kỳ).
Các bệnh nhân đã hết kinh hoặc có vòng kinh không đều hoặc các bệnh nhân sau mãn kinh có thể bắt đầu liều điều trị bất cứ lúc nào, không được dùng cho phụ nữ có thai.
Liều dùng: Viên thuốc màu trắng được uống hàng ngày trong suốt 11 ngày đầu tiên, uống tiếp viên màu nâu nhạt trong 10 ngày sau. Sau thời gian 21 ngày uống thuốc sẽ ngừng uống trong 7 ngày.
Cách dùng: Mỗi vỉ thuốc sẽ dùng cho 21 ngày điều trị. Vỉ thuốc Cyclo – Propynova mới nên bắt đầu vào cùng ngày với tuần trước đó sau khi ngừng uống thuốc 7 ngày. Nên uống nguyên viên thuốc với một ít nước. Nên uống thuốc vào một thời điểm cố định hàng ngày.
Nếu quên uống thuốc:
Trong trường hợp quên uống thuốc, cần uống ngay viên thuốc quên đó càng sớm càng tốt. Nếu nhiều hơn 24 giờ, không cần uống thêm viên thuốc nào khác ngoài viên thuốc đã quên. Nếu quên uống thuốc trong vài ngày, hiện tượng chảy máu kinh nguyệt bất thường có thể xảy ra.
Hiện tượng ra máu của chu kỳ kinh nguyệt thường xảy ra trong 7 ngày ngưng uống thuốc, có thể một vài ngày sau khi uống viên thuốc cuối cùng.
Các nhóm đối tượng đặc biệt:
Trẻ em và trẻ vị thành niên: Cyclo – Progynova không được chỉ định cho trẻ em và trẻ vị thành niên.
Bệnh nhân cao tuổi: Không có dữ liệu cho thấy cần điều chỉnh liều ở bệnh nhân cao tuổi.
Bệnh nhân suy gan: Cyclo – Progynova chưa được nghiên cứu riêng trên bệnh nhân suy gan. Chống chỉ định sử dụng Cyclo – Progynova cho phụ nữ có bệnh gan nghiêm trọng.
Bệnh nhân suy thận: Cyclo – Progynova chưa được nghiên cứu riêng trên bệnh nhân suy thận. Các dữ liệu hiện có cho thấy không cần điều chỉnh liều thuốc ở đối tượng bệnh nhân này.
4. Chống chỉ định khi dùng Cyclo - Progynova
Không được điều trị liệu pháp hormon thay thế cho các trường hợp dưới đây. Cần dừng thuốc ngay nếu xuất hiện bất kỳ hiện tượng nào được ghi dưới đây trong thời gian điều trị:
- Phụ nữ có thai và đang cho con bú.
- Chảy máu âm đạo không rõ nguyên nhân.
- Có hoặc nghi ngờ ung thư vú.
- Có hoặc nghi ngờ có khối u ở tử cung lành tính hoặc ác tính, do ảnh hưởng của các hormon sinh dục.
- Hiện tại hoặc có tiền sử bị u gan (lành hoặc ác tính).
- Các bệnh gan nặng.
- Nghẽn mạch huyết khối động mạch cấp tính (ví dụ nhồi máu cơ tim, đột quỵ).
- Huyết khối tĩnh mạch sâu tiến triển, nghẽn mạch huyết khối hoặc có tiền sử mắc các bệnh này.
- Nguy cơ cao bị huyết khối động mạch và tĩnh mạch.
- Tăng triglyceride máu nặng.
- Có tiền sử mẫn cảm với bất kỳ thành phần nào của thuốc.
- Phụ nữ có thai và đang cho con bú.
- Chảy máu âm đạo không rõ nguyên nhân.
- Có hoặc nghi ngờ ung thư vú.
- Có hoặc nghi ngờ có khối u ở tử cung lành tính hoặc ác tính, do ảnh hưởng của các hormon sinh dục.
- Hiện tại hoặc có tiền sử bị u gan (lành hoặc ác tính).
- Các bệnh gan nặng.
- Nghẽn mạch huyết khối động mạch cấp tính (ví dụ nhồi máu cơ tim, đột quỵ).
- Huyết khối tĩnh mạch sâu tiến triển, nghẽn mạch huyết khối hoặc có tiền sử mắc các bệnh này.
- Nguy cơ cao bị huyết khối động mạch và tĩnh mạch.
- Tăng triglyceride máu nặng.
- Có tiền sử mẫn cảm với bất kỳ thành phần nào của thuốc.
5. Thận trọng khi dùng Cyclo - Progynova
Cyclo-Progynova không được dùng cho mục đích ngừa thai.
Khi dùng thuốc, nên áp dụng ngừa thai bằng các phương pháp không dùng nội tiết (ngoại lệ: không dùng phương pháp tính theo chu kỳ và theo dõi thân nhiệt). Nếu khả năng có thai có thể xảy ra, ngay lập tức ngưng dùng thuốc cho đến khi loại bỏ khả năng này.
Trước khi bắt đầu sử dụng liệu pháp, cần cân nhắc các điều kiện và yếu tố nguy cơ được liệt kê dưới đây để quyết định về lợi ích cũng như rủi ro khi điều trị cho bệnh nhân.
Khi đang điều trị bằng liệu pháp này, cần ngưng thuốc ngay lập tức nếu phát hiện chống chỉ định hoặc khi xuất hiện các tình trạng dưới đây:
- Xuất hiện lần đầu tiên đau nửa đầu hoặc thỉnh thoảng hay thường xuyên đau đầu trầm trọng hoặc các triệu chứng khác báo trước nguy cơ tắc mạch não.
- Sự tái phát của bệnh vàng da tắc mật hoặc ngứa do tắc mật xuất hiện lần đầu tiên khi đang mang thai hoặc sử dụng các steroid sinh dục trước đây.
- Có triệu chứng hoặc nghi vấn tắc mạch.
Trong trường hợp các nguy cơ này xuất hiện lần đầu hoặc tái xuất hiện, cần thực hiện phân tích lợi ích cũng như nguy cơ của liệu pháp này đồng thời cân nhắc khả năng ngừng sử dụng liệu pháp hormon thay thế.
Huyết khối tĩnh mạch
Cả hai nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng và nghiên cứu dịch tễ học cho thấy rằng liệu pháp thay thế hormon (HRT) có thể liên quan đến sự tăng nguy cơ phát triển thuyên tắc tĩnh mạch do huyết khối (VTE), ví dụ như huyết khối tắc tĩnh mạch sâu hoặc tắc mạch phổi. Cần phải cân nhắc cẩn thận giữa nguy cơ và lợi ích của việc dùng thuốc và tư vấn cho bệnh nhân về nguy cơ này sử dụng liệu pháp hormon thay thế cho những phụ nữ có yếu tố nguy cơ.
Nhìn chung, những yếu tố nguy cơ đối với huyết khối tĩnh mạch có thể được nhận biết bao gồm tiền sử cá nhân, tiền sử gia đình (xảy ra huyết khối tĩnh mạch ở những người có quan hệ huyết thống trực tiếp khi tuổi còn trẻ có thể do xu hướng di truyền) và bệnh béo phì trầm trọng. Nguy cơ huyết khối tĩnh mạch tăng theo tuổi. Không có sự đồng thuận về vai trò có thể có của giãn tĩnh mạch trong huyết khối tĩnh mạch.
Nguy cơ huyết khối tĩnh mạch có thể tạm thời tăng khi bị bất động kéo dài, phẫu thuật sau chấn thương hoặc đại phẫu theo chương trình, hoặc chấn thương lớn. Phụ thuộc vào tính chất của từng trường hợp và thời gian bất động, cần phải xem xét đến việc tạm thời ngừng dùng HRT.
Cần cân nhắc tới khả năng tăng cộng hợp nguy cơ huyết khối ở những phụ nữ có đồng thời nhiều yếu tố nguy cơ hoặc có một yếu tố nguy cơ ở mức độ nặng. Điều này sẽ nghiêm trọng hơn nhiều chứ không chỉ đơn giản là tổng của các yếu tố nguy cơ. Không áp dụng trị liệu thay thế hormon (HRT) cho những trường hợp nguy cơ vượt trội lợi ích.
Huyết khối động mạch
Hai thử nghiệm lâm sàng lớn đã được tiến hành kết hợp Equine Estrogen liên hợp (CEE) với MedroxyProgestogen Acetate (MPA), loại hormon được sử dụng trong liệu pháp hormon thay thế cho thấy nguy cơ mắc bệnh về mạch vành (CHD) có thể tăng nhẹ trong năm đầu tiên sử dụng. Thử nghiệm lâm sàng với CEE đơn thuần cho thấy khả năng giảm tỷ lệ CHD ở phụ nữ trong độ tuổi từ 50-59 và hoàn toàn không có lợi ích đối với tổng số người tham gia thử nghiệm. Một kết quả nữa là, trong hai thử nghiệm lâm sàng với hormon này nguy cơ đột quỵ tăng từ 30% đến 40%. Người ta chưa xác định được rằng liệu những phát hiện này có tương ứng với các chế phẩm hormon thay thế khác hay không.
Các bệnh của túi mật: Estrogen được cho là làm tăng nguy cơ hình thành sỏi mật. Một số phụ nữ có khả năng mắc các bệnh về túi mật trong thời gian sử dụng liệu pháp estrogen.
Chứng mất trí: Các thí nghiệm lâm sàng với các chế phẩm có chứa CEE cho thấy rất ít khả năng làm tăng nguy cơ mất trí nếu bắt đầu sử dụng liệu pháp hormon này ở những phụ nữ trên 65 tuổi. Nguy cơ này có thể giảm nếu điều trị được bắt đầu trong giai đoạn đầu của thời kỳ mãn kinh. Liệu những phát hiện này có liên quan tới các chế phẩm hormon thay thế khác hay không vẫn chưa xác định được.
Các khối u
Ung thư vú
Các nghiên cứu quan sát và nghiên cứu lâm sàng đã ghi nhận nguy cơ ung thư vú được chẩn đoán xác định tăng lên với những phụ nữ đã sử dụng liệu pháp thay thế hormon trong vài năm. Sự phát hiện này có thể do được chẩn đoán sớm, hoặc do sự phát triển của các khối u có sẵn, hoặc do cả hai. Đánh giá tổng quát nguy cơ có liên quan tới chẩn đoán ung thư vú trên hơn 50 nghiên cứu dịch tễ học cho thấy phần lớn nguy cơ được ghi nhận ở nguyên nhân 1 và 2.
Nguy cơ tương đối tăng theo thời gian điều trị và có thể thấp hơn hoặc không tăng nếu điều trị bằng các sản phẩm chỉ chứa Estrogen.
Hai thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên cỡ mẫu lớn sử dụng CEE đơn thuần hoặc kết hợp với MPA cho thấy nguy cơ tương ứng là 0,77 (Khoảng tin cậy (Confidence interval – CI) 95%; 0,59 – 1,01) hoặc 1,24 (KTC 95%; 1,01 – 1,54) sau 6 năm sử dụng liệu pháp hormon thay thế. Người ta cũng không biết liệu nó có đúng với các chế phẩm thay thế hormon khác hay không.
Người ta cũng quan sát thấy nguy cơ ung thư vú tăng lên tương tự trong một số trường hợp như: quá trình mãn kinh tự nhiên diễn ra chậm, uống rượu, hoặc béo phì.
Sự tăng lên này mất đi trong một vài năm khi ngưng sử dụng liệu pháp hormon thay thế.
Liệu pháp hormon thay thế làm tăng mật độ của hình ảnh chụp tia X quang tuyến vú. Trong một vài trường hợp, điều này có thể làm ảnh hưởng đến sự phát hiện ung thư vú từ hình ảnh chụp tia X quang.
Ung thư buồng trứng
Ung thư buồng trứng ít phổ biến hơn ung thư vú.
Một phân tích tổng hợp từ 52 nghiên cứu dịch tễ được báo cáo cho thấy nguy cơ nói chung chẩn đoán ung thư buồng trứng tăng nhẹ ở người dùng HRT so với phụ nữ chưa bao giờ sử dụng HRT (nghiên cứu tiến cứu: RR 1,20; KTC 95% 1,15 -1,26; tất cả nghiên cứu kết hợp: RR 1,14; KTC 95% 1,10-1,19). Ở phụ nữ hiện tại sử dụng HRT nguy cơ ung thư buồng trứng cũng đã tăng (RR 1,43; KTC 95% 1,31-1,56).
Các nguy cơ đi kèm này chưa được chỉ ra trong tất cả các nghiên cứu bao gồm thử nghiệm có đối chứng ngẫu nhiên; ví dụ Sáng tạo vì sức khỏe phụ nữ (The Women’s Health Initative – WHI).
Hơn nữa ảnh hưởng trong quá trình phơi nhiễm không được chỉ ra một cách thống nhất, nhưng nguy cơ có thể liên quan nhiều đến việc sử dụng kéo dài (vài năm).
Ung thư nội mạc tử cung:
Sử dụng lâu dài Estrogen đơn thuần có thể làm gia tăng nguy cơ xuất hiện tăng sinh nội mạc tử cung hoặc ung thư nội mạc tử cung. Các nghiên cứu cũng đã gợi ý rằng khi điều trị kết hợp với Progestogen sẽ làm giảm nguy cơ tăng sinh và/hoặc ung thư nội mạc tử cung.
U gan
Trong một số trường hợp đã gặp u lành tính ở gan và hiếm hơn nữa là gặp u ác tính của gan sau khi sử dụng các chế phẩm có chứa hormon có thành phần giống với thuốc sử dụng trong liệu pháp thay thế hormon. Trong một vài trường hợp có thể xảy ra xuất huyết nặng trong ổ bụng đe dọa tính mạng bệnh nhân. Nên nghĩ đến khả năng có khối u gan bằng các chẩn đoán phân biệt trong trường hợp có triệu chứng đau vùng bụng trên, gan to, hoặc có dấu hiệu chảy máu trong ổ bụng.
Các vấn đề khác
Mối liên hệ giữa việc sử dụng HRT và bệnh tăng huyết áp trên lâm sàng chưa được xác định. Hiện tượng tăng nhẹ huyết áp ở những phụ nữ sử dụng HRT cũng đã được báo cáo. Thường hiếm khi có biểu hiện trên lâm sàng. Tuy nhiên, nếu trong một số trường hợp các dấu hiệu tăng huyết áp trên lâm sàng kéo dài liên tục trong thời gian sử dụng HRT, có thể phải ngưng sử dụng thuốc.
Các rối loạn chức năng gan không trầm trọng, bao gồm cả tăng bilirubin trong máu như hội chứng Dubin-Johnson hoặc hội chứng Rotor, cần phải theo dõi chặt chẽ và kiểm tra chức năng gan định kỳ. Trong trường hợp có dấu hiệu suy chức năng gan, nên ngưng sử dụng HRT.
Đối với phụ nữ có chỉ số triglyceride tăng ở mức độ vừa phải cần đặc biệt theo dõi. Việc sử dụng HRT đối với những phụ nữ này có thể làm tăng thêm chỉ số triglyceride, có thể gây nguy cơ viêm tụy cấp.
Mặc dù sử dụng HRT có thể ảnh hưởng đến sự kháng lại insulin ở ngoại vi và độ dung nạp glucose, nhìn chung không cần điều chỉnh liều dùng của các thuốc điều trị tiểu đường trong thời gian sử dụng HRT. Tuy nhiên những phụ nữ mắc bệnh tiểu đường cần được theo dõi cẩn thận trong thời gian sử dụng HRT.
Một số trường hợp nhất định có thể xuất hiện dấu hiệu kích thích hệ estrogenic trong thời gian sử dụng HRT như chảy máu tử cung bất thường. Chảy máu âm đạo bất thường thường xuyên hoặc dai dẳng trong quá trình điều trị có thể làm một dấu hiệu để đánh giá tình trạng nội mạc tử cung.
Nếu việc điều trị kinh nguyệt bất thường không có hiệu quả, cần phải áp dụng các chẩn đoán thích hợp để loại trừ các bệnh của các cơ quan khác.
U xơ tử cung có thể tăng kích thước do tác dụng của estrogen. Nếu xuất hiện dấu hiệu này, nên ngừng sử dụng HRT.
Nếu bệnh lạc nội mạc tử cung xuất hiện trở lại trong thời gian điều trị thì nên ngưng sử dụng HRT.
Cần theo dõi y tế chặt chẽ (bao gồm cả định kỳ kiểm tra nồng độ prolactin) ở những bệnh nhân bị u có tiết prolactin.
Hiện tượng sạm da thường rất hiếm khi xảy ra, thường gặp ở những bệnh nhân có tiền sử sạm da trong thai kỳ. Những phụ nữ có xu hướng bị sạm da nên tránh tiếp xúc trực tiếp với ánh sáng mặt trời hoặc tia cực tím trong thời gian sử dụng HRT.
Các dấu hiệu sau đây cũng đã được báo cáo là có thể xảy ra hoặc trở nên xấu đi khi sử dụng HRT. Tuy nhiên, nó không cho thấy có sự liên quan rõ ràng đến việc sử dụng HRT, những phụ nữ này cần được theo dõi chặt chẽ trong thời gian sử dụng HRT:
- Động kinh
- Các bệnh lành tính ở vú
- Hen phế quản
- Đau nửa đầu
- Porphyrin niệu
- Loãng xương
- Lupus ban đỏ hệ thống
- Múa vờn nhẹ
Ở những phụ nữ mắc bệnh phù mạch do di truyền, estrogen ngoại sinh có thể sản sinh hoặc làm tăng các triệu chứng phù mạch.
Thăm khám y khoa
Cần hỏi rõ đầy đủ tiền sử bệnh tật của bệnh nhân và tiến hành thăm khám nội khoa trước khi bắt đầu hoặc trước khi tái sử dụng liệu pháp hormon thay thế, thực hiện theo định kỳ những hướng dẫn ở mục chống chỉ định và cảnh báo. Tần suất và tính chất thăm khám này cần phải dựa vào những kinh nghiệm thực tế và áp dụng đối với từng trường hợp cụ thể, tuy nhiên phải bao gồm thăm khám cổ tử cung, làm tế bào học cổ tử cung, khám bụng, vú và huyết áp.
Khi dùng thuốc, nên áp dụng ngừa thai bằng các phương pháp không dùng nội tiết (ngoại lệ: không dùng phương pháp tính theo chu kỳ và theo dõi thân nhiệt). Nếu khả năng có thai có thể xảy ra, ngay lập tức ngưng dùng thuốc cho đến khi loại bỏ khả năng này.
Trước khi bắt đầu sử dụng liệu pháp, cần cân nhắc các điều kiện và yếu tố nguy cơ được liệt kê dưới đây để quyết định về lợi ích cũng như rủi ro khi điều trị cho bệnh nhân.
Khi đang điều trị bằng liệu pháp này, cần ngưng thuốc ngay lập tức nếu phát hiện chống chỉ định hoặc khi xuất hiện các tình trạng dưới đây:
- Xuất hiện lần đầu tiên đau nửa đầu hoặc thỉnh thoảng hay thường xuyên đau đầu trầm trọng hoặc các triệu chứng khác báo trước nguy cơ tắc mạch não.
- Sự tái phát của bệnh vàng da tắc mật hoặc ngứa do tắc mật xuất hiện lần đầu tiên khi đang mang thai hoặc sử dụng các steroid sinh dục trước đây.
- Có triệu chứng hoặc nghi vấn tắc mạch.
Trong trường hợp các nguy cơ này xuất hiện lần đầu hoặc tái xuất hiện, cần thực hiện phân tích lợi ích cũng như nguy cơ của liệu pháp này đồng thời cân nhắc khả năng ngừng sử dụng liệu pháp hormon thay thế.
Huyết khối tĩnh mạch
Cả hai nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng và nghiên cứu dịch tễ học cho thấy rằng liệu pháp thay thế hormon (HRT) có thể liên quan đến sự tăng nguy cơ phát triển thuyên tắc tĩnh mạch do huyết khối (VTE), ví dụ như huyết khối tắc tĩnh mạch sâu hoặc tắc mạch phổi. Cần phải cân nhắc cẩn thận giữa nguy cơ và lợi ích của việc dùng thuốc và tư vấn cho bệnh nhân về nguy cơ này sử dụng liệu pháp hormon thay thế cho những phụ nữ có yếu tố nguy cơ.
Nhìn chung, những yếu tố nguy cơ đối với huyết khối tĩnh mạch có thể được nhận biết bao gồm tiền sử cá nhân, tiền sử gia đình (xảy ra huyết khối tĩnh mạch ở những người có quan hệ huyết thống trực tiếp khi tuổi còn trẻ có thể do xu hướng di truyền) và bệnh béo phì trầm trọng. Nguy cơ huyết khối tĩnh mạch tăng theo tuổi. Không có sự đồng thuận về vai trò có thể có của giãn tĩnh mạch trong huyết khối tĩnh mạch.
Nguy cơ huyết khối tĩnh mạch có thể tạm thời tăng khi bị bất động kéo dài, phẫu thuật sau chấn thương hoặc đại phẫu theo chương trình, hoặc chấn thương lớn. Phụ thuộc vào tính chất của từng trường hợp và thời gian bất động, cần phải xem xét đến việc tạm thời ngừng dùng HRT.
Cần cân nhắc tới khả năng tăng cộng hợp nguy cơ huyết khối ở những phụ nữ có đồng thời nhiều yếu tố nguy cơ hoặc có một yếu tố nguy cơ ở mức độ nặng. Điều này sẽ nghiêm trọng hơn nhiều chứ không chỉ đơn giản là tổng của các yếu tố nguy cơ. Không áp dụng trị liệu thay thế hormon (HRT) cho những trường hợp nguy cơ vượt trội lợi ích.
Huyết khối động mạch
Hai thử nghiệm lâm sàng lớn đã được tiến hành kết hợp Equine Estrogen liên hợp (CEE) với MedroxyProgestogen Acetate (MPA), loại hormon được sử dụng trong liệu pháp hormon thay thế cho thấy nguy cơ mắc bệnh về mạch vành (CHD) có thể tăng nhẹ trong năm đầu tiên sử dụng. Thử nghiệm lâm sàng với CEE đơn thuần cho thấy khả năng giảm tỷ lệ CHD ở phụ nữ trong độ tuổi từ 50-59 và hoàn toàn không có lợi ích đối với tổng số người tham gia thử nghiệm. Một kết quả nữa là, trong hai thử nghiệm lâm sàng với hormon này nguy cơ đột quỵ tăng từ 30% đến 40%. Người ta chưa xác định được rằng liệu những phát hiện này có tương ứng với các chế phẩm hormon thay thế khác hay không.
Các bệnh của túi mật: Estrogen được cho là làm tăng nguy cơ hình thành sỏi mật. Một số phụ nữ có khả năng mắc các bệnh về túi mật trong thời gian sử dụng liệu pháp estrogen.
Chứng mất trí: Các thí nghiệm lâm sàng với các chế phẩm có chứa CEE cho thấy rất ít khả năng làm tăng nguy cơ mất trí nếu bắt đầu sử dụng liệu pháp hormon này ở những phụ nữ trên 65 tuổi. Nguy cơ này có thể giảm nếu điều trị được bắt đầu trong giai đoạn đầu của thời kỳ mãn kinh. Liệu những phát hiện này có liên quan tới các chế phẩm hormon thay thế khác hay không vẫn chưa xác định được.
Các khối u
Ung thư vú
Các nghiên cứu quan sát và nghiên cứu lâm sàng đã ghi nhận nguy cơ ung thư vú được chẩn đoán xác định tăng lên với những phụ nữ đã sử dụng liệu pháp thay thế hormon trong vài năm. Sự phát hiện này có thể do được chẩn đoán sớm, hoặc do sự phát triển của các khối u có sẵn, hoặc do cả hai. Đánh giá tổng quát nguy cơ có liên quan tới chẩn đoán ung thư vú trên hơn 50 nghiên cứu dịch tễ học cho thấy phần lớn nguy cơ được ghi nhận ở nguyên nhân 1 và 2.
Nguy cơ tương đối tăng theo thời gian điều trị và có thể thấp hơn hoặc không tăng nếu điều trị bằng các sản phẩm chỉ chứa Estrogen.
Hai thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên cỡ mẫu lớn sử dụng CEE đơn thuần hoặc kết hợp với MPA cho thấy nguy cơ tương ứng là 0,77 (Khoảng tin cậy (Confidence interval – CI) 95%; 0,59 – 1,01) hoặc 1,24 (KTC 95%; 1,01 – 1,54) sau 6 năm sử dụng liệu pháp hormon thay thế. Người ta cũng không biết liệu nó có đúng với các chế phẩm thay thế hormon khác hay không.
Người ta cũng quan sát thấy nguy cơ ung thư vú tăng lên tương tự trong một số trường hợp như: quá trình mãn kinh tự nhiên diễn ra chậm, uống rượu, hoặc béo phì.
Sự tăng lên này mất đi trong một vài năm khi ngưng sử dụng liệu pháp hormon thay thế.
Liệu pháp hormon thay thế làm tăng mật độ của hình ảnh chụp tia X quang tuyến vú. Trong một vài trường hợp, điều này có thể làm ảnh hưởng đến sự phát hiện ung thư vú từ hình ảnh chụp tia X quang.
Ung thư buồng trứng
Ung thư buồng trứng ít phổ biến hơn ung thư vú.
Một phân tích tổng hợp từ 52 nghiên cứu dịch tễ được báo cáo cho thấy nguy cơ nói chung chẩn đoán ung thư buồng trứng tăng nhẹ ở người dùng HRT so với phụ nữ chưa bao giờ sử dụng HRT (nghiên cứu tiến cứu: RR 1,20; KTC 95% 1,15 -1,26; tất cả nghiên cứu kết hợp: RR 1,14; KTC 95% 1,10-1,19). Ở phụ nữ hiện tại sử dụng HRT nguy cơ ung thư buồng trứng cũng đã tăng (RR 1,43; KTC 95% 1,31-1,56).
Các nguy cơ đi kèm này chưa được chỉ ra trong tất cả các nghiên cứu bao gồm thử nghiệm có đối chứng ngẫu nhiên; ví dụ Sáng tạo vì sức khỏe phụ nữ (The Women’s Health Initative – WHI).
Hơn nữa ảnh hưởng trong quá trình phơi nhiễm không được chỉ ra một cách thống nhất, nhưng nguy cơ có thể liên quan nhiều đến việc sử dụng kéo dài (vài năm).
Ung thư nội mạc tử cung:
Sử dụng lâu dài Estrogen đơn thuần có thể làm gia tăng nguy cơ xuất hiện tăng sinh nội mạc tử cung hoặc ung thư nội mạc tử cung. Các nghiên cứu cũng đã gợi ý rằng khi điều trị kết hợp với Progestogen sẽ làm giảm nguy cơ tăng sinh và/hoặc ung thư nội mạc tử cung.
U gan
Trong một số trường hợp đã gặp u lành tính ở gan và hiếm hơn nữa là gặp u ác tính của gan sau khi sử dụng các chế phẩm có chứa hormon có thành phần giống với thuốc sử dụng trong liệu pháp thay thế hormon. Trong một vài trường hợp có thể xảy ra xuất huyết nặng trong ổ bụng đe dọa tính mạng bệnh nhân. Nên nghĩ đến khả năng có khối u gan bằng các chẩn đoán phân biệt trong trường hợp có triệu chứng đau vùng bụng trên, gan to, hoặc có dấu hiệu chảy máu trong ổ bụng.
Các vấn đề khác
Mối liên hệ giữa việc sử dụng HRT và bệnh tăng huyết áp trên lâm sàng chưa được xác định. Hiện tượng tăng nhẹ huyết áp ở những phụ nữ sử dụng HRT cũng đã được báo cáo. Thường hiếm khi có biểu hiện trên lâm sàng. Tuy nhiên, nếu trong một số trường hợp các dấu hiệu tăng huyết áp trên lâm sàng kéo dài liên tục trong thời gian sử dụng HRT, có thể phải ngưng sử dụng thuốc.
Các rối loạn chức năng gan không trầm trọng, bao gồm cả tăng bilirubin trong máu như hội chứng Dubin-Johnson hoặc hội chứng Rotor, cần phải theo dõi chặt chẽ và kiểm tra chức năng gan định kỳ. Trong trường hợp có dấu hiệu suy chức năng gan, nên ngưng sử dụng HRT.
Đối với phụ nữ có chỉ số triglyceride tăng ở mức độ vừa phải cần đặc biệt theo dõi. Việc sử dụng HRT đối với những phụ nữ này có thể làm tăng thêm chỉ số triglyceride, có thể gây nguy cơ viêm tụy cấp.
Mặc dù sử dụng HRT có thể ảnh hưởng đến sự kháng lại insulin ở ngoại vi và độ dung nạp glucose, nhìn chung không cần điều chỉnh liều dùng của các thuốc điều trị tiểu đường trong thời gian sử dụng HRT. Tuy nhiên những phụ nữ mắc bệnh tiểu đường cần được theo dõi cẩn thận trong thời gian sử dụng HRT.
Một số trường hợp nhất định có thể xuất hiện dấu hiệu kích thích hệ estrogenic trong thời gian sử dụng HRT như chảy máu tử cung bất thường. Chảy máu âm đạo bất thường thường xuyên hoặc dai dẳng trong quá trình điều trị có thể làm một dấu hiệu để đánh giá tình trạng nội mạc tử cung.
Nếu việc điều trị kinh nguyệt bất thường không có hiệu quả, cần phải áp dụng các chẩn đoán thích hợp để loại trừ các bệnh của các cơ quan khác.
U xơ tử cung có thể tăng kích thước do tác dụng của estrogen. Nếu xuất hiện dấu hiệu này, nên ngừng sử dụng HRT.
Nếu bệnh lạc nội mạc tử cung xuất hiện trở lại trong thời gian điều trị thì nên ngưng sử dụng HRT.
Cần theo dõi y tế chặt chẽ (bao gồm cả định kỳ kiểm tra nồng độ prolactin) ở những bệnh nhân bị u có tiết prolactin.
Hiện tượng sạm da thường rất hiếm khi xảy ra, thường gặp ở những bệnh nhân có tiền sử sạm da trong thai kỳ. Những phụ nữ có xu hướng bị sạm da nên tránh tiếp xúc trực tiếp với ánh sáng mặt trời hoặc tia cực tím trong thời gian sử dụng HRT.
Các dấu hiệu sau đây cũng đã được báo cáo là có thể xảy ra hoặc trở nên xấu đi khi sử dụng HRT. Tuy nhiên, nó không cho thấy có sự liên quan rõ ràng đến việc sử dụng HRT, những phụ nữ này cần được theo dõi chặt chẽ trong thời gian sử dụng HRT:
- Động kinh
- Các bệnh lành tính ở vú
- Hen phế quản
- Đau nửa đầu
- Porphyrin niệu
- Loãng xương
- Lupus ban đỏ hệ thống
- Múa vờn nhẹ
Ở những phụ nữ mắc bệnh phù mạch do di truyền, estrogen ngoại sinh có thể sản sinh hoặc làm tăng các triệu chứng phù mạch.
Thăm khám y khoa
Cần hỏi rõ đầy đủ tiền sử bệnh tật của bệnh nhân và tiến hành thăm khám nội khoa trước khi bắt đầu hoặc trước khi tái sử dụng liệu pháp hormon thay thế, thực hiện theo định kỳ những hướng dẫn ở mục chống chỉ định và cảnh báo. Tần suất và tính chất thăm khám này cần phải dựa vào những kinh nghiệm thực tế và áp dụng đối với từng trường hợp cụ thể, tuy nhiên phải bao gồm thăm khám cổ tử cung, làm tế bào học cổ tử cung, khám bụng, vú và huyết áp.
6. Sử dụng thuốc cho phụ nữ có thai và cho con bú
Không dùng liệu pháp thay thế hormon cho phụ nữ có thai và cho con bú. Nếu có thai trong thời gian sử dụng Cyclo – Progynova, nên ngừng điều trị ngay lập tức.
Nghiên cứu dịch tễ trên diện rộng về sử dụng hormon steroid cho thấy không gia tăng nguy cơ đối với những đứa trẻ sinh ra ở những bà mẹ có sử dụng hormon trước khi có thai cũng như không có biểu hiện sinh quái thai đối với những bà mẹ sử dụng hormon trong thời gian đầu của thai kỳ.
Một lượng nhỏ các hormon sinh dục được bài xuất vào trong sữa mẹ.
Nghiên cứu dịch tễ trên diện rộng về sử dụng hormon steroid cho thấy không gia tăng nguy cơ đối với những đứa trẻ sinh ra ở những bà mẹ có sử dụng hormon trước khi có thai cũng như không có biểu hiện sinh quái thai đối với những bà mẹ sử dụng hormon trong thời gian đầu của thai kỳ.
Một lượng nhỏ các hormon sinh dục được bài xuất vào trong sữa mẹ.
7. Khả năng lái xe và vận hành máy móc
Chưa có nghiên cứu nào về ảnh hưởng lên khả năng lái xe và vận hành máy móc được thực hiện. Chưa quan sát được ảnh hưởng nào lên khả năng lái xe và vận hành máy móc trong quá trình sử dụng thuốc. Tuy nhiên, thuốc gây đau đầu, trầm cảm, chóng mặt, rối loạn thị giác do đó cần thận trọng khi lái tàu xe và vận hành máy móc.
8. Tác dụng không mong muốn
Các tác dụng ngoại ý trầm trọng có liên quan đến việc sử dụng liệu pháp hormon thay thế cũng như các triệu chứng khác được đề cập trong mục “Cảnh báo và thận trọng”.
Các tác dụng ngoại ý khác cũng được báo cáo ở những phụ nữ sử dụng liệu pháp hormon thay thế (các nghiên cứu hậu mãi), tuy nhiên người ta chưa xác định được rằng chúng có mối liên quan với Cyclo-Progynova hay không.
Rối loạn hệ thống miễn dịch:
Ít gặp: Phản ứng quá mẫn.
Rối loạn chuyển hóa và dinh dưỡng:
Thường gặp: Tăng cân, giảm cân.
Rối loạn tâm thần:
Ít gặp: Trạng thái trầm cảm.
Hiếm gặp: Lo lắng, tăng libido, giảm libido.
Rối loạn hệ thần kinh:
Thường gặp: Đau đầu.
Ít gặp: Chóng mặt.
Hiếm gặp: Đau nửa đầu.
Rối loạn thị lực:
Ít gặp: Ảnh hưởng thị giác.
Hiếm gặp: Không thích ứng kính áp tròng.
Rối loạn tim mạch:
Ít gặp: Tim đập nhanh.
Rối loạn hệ tiêu hóa:
Thường gặp: Đau bụng, buồn nôn.
Ít gặp: Khó tiêu.
Hiếm gặp: Chướng bụng, nôn.
Rối loạn da và tổ chức mô dưới da:
Thường gặp: Phát ban, ngứa.
Ít gặp: Chứng ban đỏ, chứng mày đay.
Hiếm gặp: Chứng rậm lông, da nổi mụn.
Rối loạn cơ xương và mô liên kết:
Hiếm gặp: Chuột rút.
Rối loạn cơ quan sinh sản và vú:
Thường gặp: Chảy máu tử cung/âm đạo dạng chấm giọt (chảy máu bất thường trong thời gian điều trị).
Ít gặp: Đau vú, căng tức vú.
Hiếm gặp: Thống kinh, khí hư âm đạo, hội chứng tiền kinh nguyệt, vú to.
Rối loạn toàn thân và các triệu chứng khác:
Ít gặp: Phù.
Hiếm gặp: Mệt mỏi.
Phần lớn các thuật ngữ thích hợp trong MedDRA (phiên bản 8.0) để mô tả một dấu hiệu nhất định đã được liệt kê ở trên. Một số thuật ngữ đồng nghĩa hoặc các tình trạng liên quan chưa được liệt kê cũng cần phải được ghi nhận.
Ở những phụ nữ mắc bệnh phù mạch do di truyền, estrogen ngoại sinh có thể sản sinh hoặc làm tăng các triệu chứng phù mạch.
Liệu pháp hormon thay thế chỉ dùng estrogen hoặc kết hợp estrogen-progestin gây tăng nhẹ nguy cơ ung thư buồng trứng trong các nghiên cứu dịch tễ. Những nguy cơ này có thể liên quan nhiều hơn đến việc sử dụng kéo dài (vài năm).
Các tác dụng ngoại ý khác cũng được báo cáo ở những phụ nữ sử dụng liệu pháp hormon thay thế (các nghiên cứu hậu mãi), tuy nhiên người ta chưa xác định được rằng chúng có mối liên quan với Cyclo-Progynova hay không.
Rối loạn hệ thống miễn dịch:
Ít gặp: Phản ứng quá mẫn.
Rối loạn chuyển hóa và dinh dưỡng:
Thường gặp: Tăng cân, giảm cân.
Rối loạn tâm thần:
Ít gặp: Trạng thái trầm cảm.
Hiếm gặp: Lo lắng, tăng libido, giảm libido.
Rối loạn hệ thần kinh:
Thường gặp: Đau đầu.
Ít gặp: Chóng mặt.
Hiếm gặp: Đau nửa đầu.
Rối loạn thị lực:
Ít gặp: Ảnh hưởng thị giác.
Hiếm gặp: Không thích ứng kính áp tròng.
Rối loạn tim mạch:
Ít gặp: Tim đập nhanh.
Rối loạn hệ tiêu hóa:
Thường gặp: Đau bụng, buồn nôn.
Ít gặp: Khó tiêu.
Hiếm gặp: Chướng bụng, nôn.
Rối loạn da và tổ chức mô dưới da:
Thường gặp: Phát ban, ngứa.
Ít gặp: Chứng ban đỏ, chứng mày đay.
Hiếm gặp: Chứng rậm lông, da nổi mụn.
Rối loạn cơ xương và mô liên kết:
Hiếm gặp: Chuột rút.
Rối loạn cơ quan sinh sản và vú:
Thường gặp: Chảy máu tử cung/âm đạo dạng chấm giọt (chảy máu bất thường trong thời gian điều trị).
Ít gặp: Đau vú, căng tức vú.
Hiếm gặp: Thống kinh, khí hư âm đạo, hội chứng tiền kinh nguyệt, vú to.
Rối loạn toàn thân và các triệu chứng khác:
Ít gặp: Phù.
Hiếm gặp: Mệt mỏi.
Phần lớn các thuật ngữ thích hợp trong MedDRA (phiên bản 8.0) để mô tả một dấu hiệu nhất định đã được liệt kê ở trên. Một số thuật ngữ đồng nghĩa hoặc các tình trạng liên quan chưa được liệt kê cũng cần phải được ghi nhận.
Ở những phụ nữ mắc bệnh phù mạch do di truyền, estrogen ngoại sinh có thể sản sinh hoặc làm tăng các triệu chứng phù mạch.
Liệu pháp hormon thay thế chỉ dùng estrogen hoặc kết hợp estrogen-progestin gây tăng nhẹ nguy cơ ung thư buồng trứng trong các nghiên cứu dịch tễ. Những nguy cơ này có thể liên quan nhiều hơn đến việc sử dụng kéo dài (vài năm).
9. Tương tác với các thuốc khác
Tương tác với các thuốc khác và các dạng tương tác khác:
Lưu ý: Nên tham khảo thông tin kê toa của các thuốc sử dụng đồng thời để xác định các tương tác tiềm tàng.
Ảnh hưởng của các thuốc khác đối với Cyclo-Progynova:
Các tương tác có thể xảy ra với các thuốc bao gồm các enzym vi thể có thể dẫn đến việc làm tăng độ thanh thải của các hormon giới tính và có thể dẫn đến những thay đổi trong việc gây chảy máu tử cung và/hoặc làm giảm hiệu quả điều trị.
Các thuốc làm tăng độ thanh thải của các hormon giới tính (hiệu quả làm giảm là do cảm ứng enzym), ví dụ: Phenytoin, các barbiturate, primodon, carbamazepine, rifampicin và cũng có thể oxcarbazepine, topiramate, felbamate, griseofulvin và các sản phẩm có chứa cỏ thảo dược St. John. Cảm ứng enzym cũng có thể đã được quan sát sau vài ngày điều trị. Cảm ứng enzym có thể duy trì trong khoảng 4 tuần.
Các thuốc với những tác động khác nhau lên độ thanh thải của các hormon giới tính
Khi sử dụng phối hợp với các hormon giới tính, nhiều chất ức chế enzyme thủy phân protein (protesae) HIV/HCV và các chất ức chế vẫn chuyển ngược non-nucleosid có thể làm giảm hoặc tăng nồng độ huyết tương của estrogen hoặc progestin. Những thay đổi này có thể liên quan về mặt lâm sàng trong một vài trường hợp.
Các thuốc làm giảm độ thanh thải của các hormon giới tính (các chất ức chế enzym)
Các chất ức chế CYP3A4 trung bình và mạnh như các chất chống nấm azol (ví dụ fluconazole, itraconazole, ketoconazole, voriconazole), verapamil, các macrolide (ví dụ clarithromycin, erythromycin), diltiazem và nước ép bưởi có thể làm tăng nồng độ huyết tương của estrogen hoặc progestin hoặc cả hai. Các hoạt chất phải trải qua phản ứng liên hợp (ví dụ paracetamol) có thể làm tăng khả dụng sinh học của estradiol bằng khả năng ức chế cạnh tranh của hệ thống liên hợp trong quá trình hấp thu.
Tương tác với rượu
Sử dụng rượu trong quá trình điều trị bằng liệu pháp hormon thay thế có thể dẫn đến tăng lượng estradiol tuần hoàn.
Các dạng tương tác khác:
Kết quả xét nghiệm cận lâm sàng:
Sử dụng các steroid sinh dục có thể ảnh hưởng tới các kết quả xét nghiệm cận lâm sàng nhất định, bao gồm các chỉ số sinh hóa của gan, tuyến giáp, tuyến thượng thận và chức năng thận, hàm lượng của các protein (chất vận chuyển) trong huyết tương ví dụ các globulin gắn kết với các corticosteroid và thành phần lipid/lipoprotein, các chỉ số chuyển hóa carbonhydrat, chỉ số về đông máu và chảy máu. Những thay đổi này thường thì vẫn duy trì trong khoảng thông thường.
Tương kỵ: Không có.
Lưu ý: Nên tham khảo thông tin kê toa của các thuốc sử dụng đồng thời để xác định các tương tác tiềm tàng.
Ảnh hưởng của các thuốc khác đối với Cyclo-Progynova:
Các tương tác có thể xảy ra với các thuốc bao gồm các enzym vi thể có thể dẫn đến việc làm tăng độ thanh thải của các hormon giới tính và có thể dẫn đến những thay đổi trong việc gây chảy máu tử cung và/hoặc làm giảm hiệu quả điều trị.
Các thuốc làm tăng độ thanh thải của các hormon giới tính (hiệu quả làm giảm là do cảm ứng enzym), ví dụ: Phenytoin, các barbiturate, primodon, carbamazepine, rifampicin và cũng có thể oxcarbazepine, topiramate, felbamate, griseofulvin và các sản phẩm có chứa cỏ thảo dược St. John. Cảm ứng enzym cũng có thể đã được quan sát sau vài ngày điều trị. Cảm ứng enzym có thể duy trì trong khoảng 4 tuần.
Các thuốc với những tác động khác nhau lên độ thanh thải của các hormon giới tính
Khi sử dụng phối hợp với các hormon giới tính, nhiều chất ức chế enzyme thủy phân protein (protesae) HIV/HCV và các chất ức chế vẫn chuyển ngược non-nucleosid có thể làm giảm hoặc tăng nồng độ huyết tương của estrogen hoặc progestin. Những thay đổi này có thể liên quan về mặt lâm sàng trong một vài trường hợp.
Các thuốc làm giảm độ thanh thải của các hormon giới tính (các chất ức chế enzym)
Các chất ức chế CYP3A4 trung bình và mạnh như các chất chống nấm azol (ví dụ fluconazole, itraconazole, ketoconazole, voriconazole), verapamil, các macrolide (ví dụ clarithromycin, erythromycin), diltiazem và nước ép bưởi có thể làm tăng nồng độ huyết tương của estrogen hoặc progestin hoặc cả hai. Các hoạt chất phải trải qua phản ứng liên hợp (ví dụ paracetamol) có thể làm tăng khả dụng sinh học của estradiol bằng khả năng ức chế cạnh tranh của hệ thống liên hợp trong quá trình hấp thu.
Tương tác với rượu
Sử dụng rượu trong quá trình điều trị bằng liệu pháp hormon thay thế có thể dẫn đến tăng lượng estradiol tuần hoàn.
Các dạng tương tác khác:
Kết quả xét nghiệm cận lâm sàng:
Sử dụng các steroid sinh dục có thể ảnh hưởng tới các kết quả xét nghiệm cận lâm sàng nhất định, bao gồm các chỉ số sinh hóa của gan, tuyến giáp, tuyến thượng thận và chức năng thận, hàm lượng của các protein (chất vận chuyển) trong huyết tương ví dụ các globulin gắn kết với các corticosteroid và thành phần lipid/lipoprotein, các chỉ số chuyển hóa carbonhydrat, chỉ số về đông máu và chảy máu. Những thay đổi này thường thì vẫn duy trì trong khoảng thông thường.
Tương kỵ: Không có.
10. Dược lý
Estrogen có trong Cyclo-Progynova là Estradiol valerat, một tiền chất của 17β-estradiol tự nhiên trong cơ thể con người. Cấu tạo của norgestrel là một tổ hợp progestogen. Với thành phần và chế độ sử dụng đều đặn của Cyclo-Progynova bao gồm sử dụng estrogen một pha trong 11 ngày và kết hợp estrogen – progestogen trong 10 ngày theo sau là 7 ngày ngừng uống thuốc, nếu dùng thuốc đều đặn sẽ có chu kỳ kinh bình thường trong trường hợp tử cung còn nguyên vẹn.
Sự rụng trứng thường không bị ức chế trong thời gian sử dụng Cyclo-Progynova và sự sản xuất các hormon nội sinh bị ảnh hưởng nặng nề. Chế phẩm này có thể được sử dụng cho những phụ nữ trẻ để tạo ra và điều hòa kinh nguyệt cũng như điều trị tình trạng chảy máu tử cung bất thường trong thời kỳ quanh mãn kinh.
Trong thời kỳ mãn kinh, sự suy giảm và mất hẳn quá trình sản xuất estradiol của buồng trứng có thể dẫn đến thay đổi nhiệt độ cơ thể, các cơn bốc hoả kèm theo mất ngủ và vã mồ hôi, teo cơ quan niệu sinh dục với hội chứng khô âm đạo, đau khi giao hợp và đi tiểu không kiểm soát. Không đặc trưng nhưng cũng thường được nói đến tương tự như các triệu chứng trong thời kỳ mãn kinh đó là các dấu hiệu đau thắt ngực, nhịp tim nhanh, dễ nổi cáu, suy nhược thần kinh, giảm năng lực và khả năng tập trung, hay quên, suy giảm khả năng tình dục, các hiện tượng đau mỏi cơ. Liệu pháp thay thế hormon (HRT) sẽ làm giảm các hội chứng nêu trên do thiếu estradiol đối với phụ nữ trong thời kỳ mãn kinh. Liệu pháp thay thế hormon với liều cân bằng estrogen có trong Cyclo-Progynova làm giảm nguy cơ loãng xương và làm chậm lại sự mất xương trong giai đoạn tiền mãn kinh. Khi ngừng điều trị bằng liệu pháp này, khối lượng của xương giảm tương đương giai đoạn đầu của thời kỳ sau mãn kinh. Không có bằng chứng cho thấy điều trị bằng liệu pháp thay thế hormon giữ được khối lượng của xương như trong giai đoạn tiền mãn kinh. Liệu pháp thay thế hormon có ảnh hưởng tích cực tới các thành phần cấu tạo da và độ dày của da đồng thời làm chậm quá trình nhăn da.
Từ nhiều năm nay, có rất nhiều tài liệu nghiên cứu đã gợi ý rằng có thể có quan hệ nhân quả giữa việc sử dụng liệu pháp thay thế hormon theo đường uống và sự giảm xuống các bệnh về tim mạch ở phụ nữ trong thời kỳ mãn kinh. Tuy nhiên mối quan hệ nhân quả giữa việc điều trị bằng liệu pháp hormon thay thế và việc giảm các bệnh về tim mạch ở phụ nữ trong thời kỳ mãn kinh chưa được chứng minh. Thêm nữa, tác dụng của Progestone thêm vào đối với giả định này cũng chưa được biết. Tác dụng không có lợi lên các yếu tố nguy cơ đối với bệnh tim mạch có hoặc không có lipid ở phụ nữ trong thời kỳ mãn kinh. Liệu pháp thay thế hormon làm thay đổi thành phần lipid. Liệu pháp này cũng làm giảm lượng cholesteron và LDL-cholesteron và làm tăng lượng HDL-cholesteron và triglyceride. Những ảnh hưởng của sự trao đổi chất có thể mất tác dụng do progestogen bổ sung có trong Cyclo-Progynova. Nhìn chung, tác dụng chuyển hóa của liệu pháp thay thế hormon được cho là có lợi và góp phần làm giảm nguy cơ mắc các bệnh tim mạch ở phụ nữ trong thời kỳ mãn kinh. Bên cạnh đó sự bổ sung progestogen trong liệu pháp thay thế estrogen ít nhất 10 ngày trong một chu kỳ sử dụng Cyclo-Progynova sẽ làm giảm nguy cơ tăng sinh lớp nội mạc tử cung và nguy cơ ung thư tế bào biểu mô đối với các phụ nữ tử cung còn nguyên vẹn. Bổ sung Progestogen trong liệu pháp thay thế Estrogen không cho thấy sự ảnh hưởng tới hiệu quả của Estrogen khi dùng theo những chỉ định đã được chứng minh.
Theo dõi các nghiên cứu và các thử nghiệm của WHI đối với Equine Estrogen liên hợp (CEE) kết hợp với MedroxyProgesteron Acetate (MPA) cho thấy nguy cơ ung thư đại tràng có thể giảm xuống ở những phụ nữ có sử dụng liệu pháp điều trị hormon thay thế trong thời kỳ sau mãn kinh. Trong các thử nghiệm của WHI đối với liệu pháp CEE đơn thuần, không có báo cáo về việc giảm các nguy cơ gây bệnh. Tuy nhiên chưa chứng minh được những phát hiện này có liên quan tới các thuốc thay thế khác hay không.
Sự rụng trứng thường không bị ức chế trong thời gian sử dụng Cyclo-Progynova và sự sản xuất các hormon nội sinh bị ảnh hưởng nặng nề. Chế phẩm này có thể được sử dụng cho những phụ nữ trẻ để tạo ra và điều hòa kinh nguyệt cũng như điều trị tình trạng chảy máu tử cung bất thường trong thời kỳ quanh mãn kinh.
Trong thời kỳ mãn kinh, sự suy giảm và mất hẳn quá trình sản xuất estradiol của buồng trứng có thể dẫn đến thay đổi nhiệt độ cơ thể, các cơn bốc hoả kèm theo mất ngủ và vã mồ hôi, teo cơ quan niệu sinh dục với hội chứng khô âm đạo, đau khi giao hợp và đi tiểu không kiểm soát. Không đặc trưng nhưng cũng thường được nói đến tương tự như các triệu chứng trong thời kỳ mãn kinh đó là các dấu hiệu đau thắt ngực, nhịp tim nhanh, dễ nổi cáu, suy nhược thần kinh, giảm năng lực và khả năng tập trung, hay quên, suy giảm khả năng tình dục, các hiện tượng đau mỏi cơ. Liệu pháp thay thế hormon (HRT) sẽ làm giảm các hội chứng nêu trên do thiếu estradiol đối với phụ nữ trong thời kỳ mãn kinh. Liệu pháp thay thế hormon với liều cân bằng estrogen có trong Cyclo-Progynova làm giảm nguy cơ loãng xương và làm chậm lại sự mất xương trong giai đoạn tiền mãn kinh. Khi ngừng điều trị bằng liệu pháp này, khối lượng của xương giảm tương đương giai đoạn đầu của thời kỳ sau mãn kinh. Không có bằng chứng cho thấy điều trị bằng liệu pháp thay thế hormon giữ được khối lượng của xương như trong giai đoạn tiền mãn kinh. Liệu pháp thay thế hormon có ảnh hưởng tích cực tới các thành phần cấu tạo da và độ dày của da đồng thời làm chậm quá trình nhăn da.
Từ nhiều năm nay, có rất nhiều tài liệu nghiên cứu đã gợi ý rằng có thể có quan hệ nhân quả giữa việc sử dụng liệu pháp thay thế hormon theo đường uống và sự giảm xuống các bệnh về tim mạch ở phụ nữ trong thời kỳ mãn kinh. Tuy nhiên mối quan hệ nhân quả giữa việc điều trị bằng liệu pháp hormon thay thế và việc giảm các bệnh về tim mạch ở phụ nữ trong thời kỳ mãn kinh chưa được chứng minh. Thêm nữa, tác dụng của Progestone thêm vào đối với giả định này cũng chưa được biết. Tác dụng không có lợi lên các yếu tố nguy cơ đối với bệnh tim mạch có hoặc không có lipid ở phụ nữ trong thời kỳ mãn kinh. Liệu pháp thay thế hormon làm thay đổi thành phần lipid. Liệu pháp này cũng làm giảm lượng cholesteron và LDL-cholesteron và làm tăng lượng HDL-cholesteron và triglyceride. Những ảnh hưởng của sự trao đổi chất có thể mất tác dụng do progestogen bổ sung có trong Cyclo-Progynova. Nhìn chung, tác dụng chuyển hóa của liệu pháp thay thế hormon được cho là có lợi và góp phần làm giảm nguy cơ mắc các bệnh tim mạch ở phụ nữ trong thời kỳ mãn kinh. Bên cạnh đó sự bổ sung progestogen trong liệu pháp thay thế estrogen ít nhất 10 ngày trong một chu kỳ sử dụng Cyclo-Progynova sẽ làm giảm nguy cơ tăng sinh lớp nội mạc tử cung và nguy cơ ung thư tế bào biểu mô đối với các phụ nữ tử cung còn nguyên vẹn. Bổ sung Progestogen trong liệu pháp thay thế Estrogen không cho thấy sự ảnh hưởng tới hiệu quả của Estrogen khi dùng theo những chỉ định đã được chứng minh.
Theo dõi các nghiên cứu và các thử nghiệm của WHI đối với Equine Estrogen liên hợp (CEE) kết hợp với MedroxyProgesteron Acetate (MPA) cho thấy nguy cơ ung thư đại tràng có thể giảm xuống ở những phụ nữ có sử dụng liệu pháp điều trị hormon thay thế trong thời kỳ sau mãn kinh. Trong các thử nghiệm của WHI đối với liệu pháp CEE đơn thuần, không có báo cáo về việc giảm các nguy cơ gây bệnh. Tuy nhiên chưa chứng minh được những phát hiện này có liên quan tới các thuốc thay thế khác hay không.
11. Quá liều và xử trí quá liều
Các nghiên cứu về độc tính cấp không cho thấy nguy cơ gây nên các tác dụng ngoại ý cấp tính khi sử dụng quá liều điều trị thông thường hàng ngày. Việc sử dụng quá liều có thể gây ra cảm giác buồn nôn và nôn và xuất huyết âm đạo khi dừng thuốc có thể xảy ra ở một số phụ nữ.
Không có biện pháp giải độc đặc hiệu. Xử lý quá liều nên dựa vào triệu chứng.
Không có biện pháp giải độc đặc hiệu. Xử lý quá liều nên dựa vào triệu chứng.
12. Bảo quản
Giữ thuốc trong hộp kín. Bảo quản không quá 30°C.