Dược sĩ Lê Thu Hà
Đã duyệt nội dung
Dược sĩ Lê Thu Hà
Đã duyệt nội dung
Thông tin sản phẩm
1. Thành phần của Nebicard - 5
Mỗi viên nén NEBICARD - 5 có chứa:
Nebivolol hydrochlorid tương đương với Nebivolol 5mg
Tá dược: Lactose, Tinh bột, Croscarmellose sodium, Hydroxypropyl methyl cellulose (HPMC 6 cps), Polysorbate (Tween 80), Cellulose vi tinh thể (Avicel PH 102), Magnesi stearate, Colloidal silicon dioxide.
Nebivolol hydrochlorid tương đương với Nebivolol 5mg
Tá dược: Lactose, Tinh bột, Croscarmellose sodium, Hydroxypropyl methyl cellulose (HPMC 6 cps), Polysorbate (Tween 80), Cellulose vi tinh thể (Avicel PH 102), Magnesi stearate, Colloidal silicon dioxide.
2. Công dụng của Nebicard - 5
Nebicard - 5 được chỉ định để điều trị tăng huyết áp.
3. Liều lượng và cách dùng của Nebicard - 5
Liều lượng:
5mg/lần/ngày, uống vào một thời điểm nhất định trong ngày. Thuốc có thể uống trong các bữa ăn.
Cách dùng:
Dùng theo đường uống.
5mg/lần/ngày, uống vào một thời điểm nhất định trong ngày. Thuốc có thể uống trong các bữa ăn.
Cách dùng:
Dùng theo đường uống.
4. Chống chỉ định khi dùng Nebicard - 5
- Bệnh nhân mẫn cảm với Nebivolol.
- Suy gan hoặc suy giảm chức năng gan.
- Phụ nữ có thai và cho con bú.
- Shock do suy tim.
- Suy tim mất kiểm soát.
- Hội chứng rối loạn khả năng dẫn truyền ở nút xoang, bao gồm cả bloc xoang - nhĩ.
- Block tim độ 2 và 3.
- Có tiền sử co thắt phế quản và hen phế quản.
- U tuyến thượng thận chưa điều trị.
- Nhiễm toan chuyển hoá.
- Nhịp tim chậm (< 60 nhịp/phút).
- Huyết áp thấp.
- Rối loạn trầm trọng tuần hoàn ngoại vi.
- Bệnh nhân quá mẫn với bất kì thành phần nào của thuốc.
- Suy gan hoặc suy giảm chức năng gan.
- Phụ nữ có thai và cho con bú.
- Shock do suy tim.
- Suy tim mất kiểm soát.
- Hội chứng rối loạn khả năng dẫn truyền ở nút xoang, bao gồm cả bloc xoang - nhĩ.
- Block tim độ 2 và 3.
- Có tiền sử co thắt phế quản và hen phế quản.
- U tuyến thượng thận chưa điều trị.
- Nhiễm toan chuyển hoá.
- Nhịp tim chậm (< 60 nhịp/phút).
- Huyết áp thấp.
- Rối loạn trầm trọng tuần hoàn ngoại vi.
- Bệnh nhân quá mẫn với bất kì thành phần nào của thuốc.
5. Thận trọng khi dùng Nebicard - 5
Bệnh nhân suy thận:
Nồng độ trong huyết tương của các đồng phân quang học và các chất chuyển hoá dạng hydroxyl hoá tăng đáng kể ở bệnh nhân bị bệnh thận. Vì vậy, việc giảm liều được khuyến cáo đối với những bệnh nhân này. Ở những bệnh nhân suy thận, liều khởi đầu được khuyến cáo là 2,5mg mỗi ngày. Nếu cần thiết, liều dùng hàng ngày có thể được tăng lên tới 5mg.
Bệnh nhân suy gan:
Dữ liệu về sử dụng thuốc cho bệnh nhân suy gan hay suy giảm chức năng gan còn hạn chế. Vì vậy, việc sử dụng Nebivolol cho những bệnh nhân này là chống chỉ định.
Người cao tuổi:
Do những kinh nghiệm về dùng thuốc cho những bệnh nhân trên 75 tuổi còn hạn chế nên khi sử dụng thuốc cần thận trọng và cần theo dõi chặt chẽ những bệnh nhân này.
Trẻ em:
Không có dữ liệu nào về độ an toàn và hiệu quả của Nebivolol đối với trẻ em. Vì vậy, việc sử dụng thuốc cho trẻ em không được khuyến cáo.
Nồng độ trong huyết tương của các đồng phân quang học và các chất chuyển hoá dạng hydroxyl hoá tăng đáng kể ở bệnh nhân bị bệnh thận. Vì vậy, việc giảm liều được khuyến cáo đối với những bệnh nhân này. Ở những bệnh nhân suy thận, liều khởi đầu được khuyến cáo là 2,5mg mỗi ngày. Nếu cần thiết, liều dùng hàng ngày có thể được tăng lên tới 5mg.
Bệnh nhân suy gan:
Dữ liệu về sử dụng thuốc cho bệnh nhân suy gan hay suy giảm chức năng gan còn hạn chế. Vì vậy, việc sử dụng Nebivolol cho những bệnh nhân này là chống chỉ định.
Người cao tuổi:
Do những kinh nghiệm về dùng thuốc cho những bệnh nhân trên 75 tuổi còn hạn chế nên khi sử dụng thuốc cần thận trọng và cần theo dõi chặt chẽ những bệnh nhân này.
Trẻ em:
Không có dữ liệu nào về độ an toàn và hiệu quả của Nebivolol đối với trẻ em. Vì vậy, việc sử dụng thuốc cho trẻ em không được khuyến cáo.
6. Sử dụng thuốc cho phụ nữ có thai và cho con bú
Sử dụng cho phụ nữ có thai: Những dữ liệu về việc sử dụng nebivolol cho phụ nữ có thai còn chưa đầy đủ để xác định rõ những tác dụng có hại có thể có của thuốc với đối tượng này. Những nghiên cứu trên động vật chưa thấy có dấu hiệu của bất cứ tác dụng bất lợi nào khác ngoài nhũng tác dụng gây ra do chính những tính chất dược lý của thuốc
Các thuốc chẹn beta làm giảm lưu lượng máu rau thai có thể dẫn đến hiện tượng thai chết lưu, sảy thai hay đẻ non. Hơn nữa, các tác dụng bất lợi (hạ đường huyết và chậm nhịp tim) có thể xuất hiện ở thai nhi và trẻ sơ sinh. Trẻ sơ sinh trong giai đoạn đầu sau khi sinh còn có nguy cơ cao gặp phải những biến chứng về tim và phổi. Vì vậy, không nên sử dụng nebivolol cho phụ nữ trong suốt thời kỳ mang thai.
Sử dụng cho phụ nữ cho con bú: Hầu hết các thuốc chẹn beta, đặc biệt là các hợp chất thân nước như nebivolol và các chất chuyển hoá của nó, đều vào được sữa mẹ với các mức độ khác nhau. Vì ở người, liệu nebivolol có được bài tiết vào sữa mẹ hay không vẫn còn chưa được biết nên việc sử dụng nebivolol cho phụ nữ trong thời gian cho con bú bị chống chỉ định.Những nghiên cứu trên động vật cho thấy nebivolol được bài tiết vào sữa
Các thuốc chẹn beta làm giảm lưu lượng máu rau thai có thể dẫn đến hiện tượng thai chết lưu, sảy thai hay đẻ non. Hơn nữa, các tác dụng bất lợi (hạ đường huyết và chậm nhịp tim) có thể xuất hiện ở thai nhi và trẻ sơ sinh. Trẻ sơ sinh trong giai đoạn đầu sau khi sinh còn có nguy cơ cao gặp phải những biến chứng về tim và phổi. Vì vậy, không nên sử dụng nebivolol cho phụ nữ trong suốt thời kỳ mang thai.
Sử dụng cho phụ nữ cho con bú: Hầu hết các thuốc chẹn beta, đặc biệt là các hợp chất thân nước như nebivolol và các chất chuyển hoá của nó, đều vào được sữa mẹ với các mức độ khác nhau. Vì ở người, liệu nebivolol có được bài tiết vào sữa mẹ hay không vẫn còn chưa được biết nên việc sử dụng nebivolol cho phụ nữ trong thời gian cho con bú bị chống chỉ định.Những nghiên cứu trên động vật cho thấy nebivolol được bài tiết vào sữa
7. Khả năng lái xe và vận hành máy móc
Không có nghiên cứu nào về ảnh hưởng của thuốc đến khả năng lái xe và vận hành máy móc.
8. Tác dụng không mong muốn
Hầu hết các tác dụng phụ đều chỉ ở mức nhẹ đến trung bình. Những tác dụng phụ thường gặp nhất (xảy ra khoảng 1 - 10%) là: đau đầu, chóng mặt, mệt mỏi, dị cảm. Các tác dụng phụ khác, đã được báo cáo bởi ít nhất khoảng 1% bệnh nhân, gồm có: tiêu chảy, táo bón, buồn nôn, khó thở và phù.
Các tác dụng phụ điển hình của các thuốc đối kháng beta - adrenergic, đã được báo cáo ở ít hơn 1% bệnh nhân điều trị với Nebivolol, là: nhịp tim chậm, giảm thời gian dẫn truyền nhĩ thất, bloc nhĩ thất, tụt huyết áp, suy tim, (tăng) chứng khập khễnh gián cách, giảm thị lực, bất lực, trầm cảm, ác mộng, rối loạn tiêu hoá, đầy hơi, nôn, co thắt phế quản, mẩn ngứa.
Những tác dụng phụ sau đây của một số thuốc đối kháng beta - adrenergic cũng đã được báo cáo: ảo giác, loạn tâm thần, lạnh/tím tái cực độ, biểu hiện của chứng Raynaud, khô mắt, nhiễm độc mắt - da - màng nhầy theo kiểu của practolol.
'Thông báo cho bác sỹ những tác dụng không mong muốn gặp phải khi sử dụng thuốc'
Các tác dụng phụ điển hình của các thuốc đối kháng beta - adrenergic, đã được báo cáo ở ít hơn 1% bệnh nhân điều trị với Nebivolol, là: nhịp tim chậm, giảm thời gian dẫn truyền nhĩ thất, bloc nhĩ thất, tụt huyết áp, suy tim, (tăng) chứng khập khễnh gián cách, giảm thị lực, bất lực, trầm cảm, ác mộng, rối loạn tiêu hoá, đầy hơi, nôn, co thắt phế quản, mẩn ngứa.
Những tác dụng phụ sau đây của một số thuốc đối kháng beta - adrenergic cũng đã được báo cáo: ảo giác, loạn tâm thần, lạnh/tím tái cực độ, biểu hiện của chứng Raynaud, khô mắt, nhiễm độc mắt - da - màng nhầy theo kiểu của practolol.
'Thông báo cho bác sỹ những tác dụng không mong muốn gặp phải khi sử dụng thuốc'
9. Tương tác với các thuốc khác
Các thuốc chẹn kênh calci: Cần thận trọng khi sử dụng đồng thời thuốc đối kháng beta-adrenergic cùng với các thuốc chẹn kênh calci như verapamil hay diltiazem vì tác dụng bất lợi của chúng đối với sự co bóp của tim và dẫn truyền nhĩ thất. Tiêm tĩnh mạch verapamil bị chống chỉ định đối với bệnh nhân đang dùng nebivolol.
Các thuốc chống loạn nhịp: cần chú ý khi sử dụng thuốc đối kháng beta-adrenergic kết hợp với các thuốc chống loạn nhịp nhóm I và amiodaron vì sự tác động của chúng tới thời gian dẫn truyền ờ tâm nhĩ và khả năng làm giảm co bóp cơ tim.
Clonidine: Các thuốc đối kháng beta-adrenergic làm tăng nguy cơ xuất hiện cơn tăng huyết áp phản hồi sau khi đột ngột ngừng sử dụng clonidine.
Các digitalis: Các glycosid trợ tim nhóm digitalis kết hợp với thuốc đối kháng beta-adrenergic có thể gây tăng thời gian dẫn truyền nhĩ - thất. Các thử nghiệm lâm sàng với nebivolol không cho bằng chứng lâm sàng nào của một tương tác. Nebivolol không ảnh hưởng đến động học của digoxin.
Insulin và các thuốc chống đái đường dạng uống: Mặc dù nebivolol không ảnh hưởng tới mức đường huyết nhưng một số triệu chứng của hạ đường huyết (trống ngực, nhịp tim nhanh) có thể bị che giấu khi dùng thuốc.
Các thuốc gây mê: Sử dụng đồng thời thuốc đổi kháng beta-adrenergic với thuốc gây mê có thể làm giảm phản xạ nhịp tim nhanh và tăng nguy cơ tụt huyết áp. Các bác sĩ gây mê phải được thông báo nếu bệnh nhân đang dùng nebivolol.
Các thuốc khác: Sử dụng đồng thời các thuốc chống viêm không steroid (NSAID) không làm ảnh hưởng tới hiệu quả hạ huyết áp của nebivolol.
Việc sử dụng đồng thời với cimetidin làm tăng nồng độ trong huyết tương của nebivolol nhưng không làm thay đổi hiệu quả lâm sàng. Sử dụng đồng thời với ranitidin không làm thay đổi dược động học của nebivolol. Có thể cùng kê đơn nebivolol để uống khi ăn và một thuốc kháng acid (antacid) dùng giữa các bữa ăn.
Kết hợp nebivolol với nicardipin làm tăng nhẹ nồng độ trong huyết tương của cả hai thuốc nhưng không làm thay đổi hiệu quả lâm sàng. Sử dụng đồng thời với rượu, furosemid hay hydroclothiazid đều không làm ảnh hưởng tới dược động học của nebivolol.
Nebivolol không làm ảnh hưởng tới dược động học và dược lực học của warfarin. Các thuốc cường giao cảm có thể làm mất tác dụng của thuốc đối kháng beta-adrenergic. Các thuốc đối kháng beta-adrenergic có thể làm tăng các tác dụng cường alpha-adrenergic của những thuốc cường giao cảm có tác động trên cả hệ alpha và beta adrenergic (dẫn tới nguy cơ tăng huyết áp, nhịp tim chậm và block tim).
Sử dụng đồng thời các thuốc chống trầm cảm 3 vòng, các thuốc ngủ loại barbiturat và phenothiazin có thể làm tăng hiệu quả hạ huyết áp của nebivolol.
Do quá trình chuyển hóa nebivolol có liên quan đến enzym CYP2D6 nên việc sử dụng đồng thời các thuốc ức chế tái hấp thu serotonin hay những hợp chất khác bị chuyển hóa chủ yếu bởi loại enzym này sẽ làm giảm sự chuyển hóa nebivolol.
Các thuốc chống loạn nhịp: cần chú ý khi sử dụng thuốc đối kháng beta-adrenergic kết hợp với các thuốc chống loạn nhịp nhóm I và amiodaron vì sự tác động của chúng tới thời gian dẫn truyền ờ tâm nhĩ và khả năng làm giảm co bóp cơ tim.
Clonidine: Các thuốc đối kháng beta-adrenergic làm tăng nguy cơ xuất hiện cơn tăng huyết áp phản hồi sau khi đột ngột ngừng sử dụng clonidine.
Các digitalis: Các glycosid trợ tim nhóm digitalis kết hợp với thuốc đối kháng beta-adrenergic có thể gây tăng thời gian dẫn truyền nhĩ - thất. Các thử nghiệm lâm sàng với nebivolol không cho bằng chứng lâm sàng nào của một tương tác. Nebivolol không ảnh hưởng đến động học của digoxin.
Insulin và các thuốc chống đái đường dạng uống: Mặc dù nebivolol không ảnh hưởng tới mức đường huyết nhưng một số triệu chứng của hạ đường huyết (trống ngực, nhịp tim nhanh) có thể bị che giấu khi dùng thuốc.
Các thuốc gây mê: Sử dụng đồng thời thuốc đổi kháng beta-adrenergic với thuốc gây mê có thể làm giảm phản xạ nhịp tim nhanh và tăng nguy cơ tụt huyết áp. Các bác sĩ gây mê phải được thông báo nếu bệnh nhân đang dùng nebivolol.
Các thuốc khác: Sử dụng đồng thời các thuốc chống viêm không steroid (NSAID) không làm ảnh hưởng tới hiệu quả hạ huyết áp của nebivolol.
Việc sử dụng đồng thời với cimetidin làm tăng nồng độ trong huyết tương của nebivolol nhưng không làm thay đổi hiệu quả lâm sàng. Sử dụng đồng thời với ranitidin không làm thay đổi dược động học của nebivolol. Có thể cùng kê đơn nebivolol để uống khi ăn và một thuốc kháng acid (antacid) dùng giữa các bữa ăn.
Kết hợp nebivolol với nicardipin làm tăng nhẹ nồng độ trong huyết tương của cả hai thuốc nhưng không làm thay đổi hiệu quả lâm sàng. Sử dụng đồng thời với rượu, furosemid hay hydroclothiazid đều không làm ảnh hưởng tới dược động học của nebivolol.
Nebivolol không làm ảnh hưởng tới dược động học và dược lực học của warfarin. Các thuốc cường giao cảm có thể làm mất tác dụng của thuốc đối kháng beta-adrenergic. Các thuốc đối kháng beta-adrenergic có thể làm tăng các tác dụng cường alpha-adrenergic của những thuốc cường giao cảm có tác động trên cả hệ alpha và beta adrenergic (dẫn tới nguy cơ tăng huyết áp, nhịp tim chậm và block tim).
Sử dụng đồng thời các thuốc chống trầm cảm 3 vòng, các thuốc ngủ loại barbiturat và phenothiazin có thể làm tăng hiệu quả hạ huyết áp của nebivolol.
Do quá trình chuyển hóa nebivolol có liên quan đến enzym CYP2D6 nên việc sử dụng đồng thời các thuốc ức chế tái hấp thu serotonin hay những hợp chất khác bị chuyển hóa chủ yếu bởi loại enzym này sẽ làm giảm sự chuyển hóa nebivolol.
10. Dược lý
Dược lực học
Nebivolol là một thuốc chẹn 1 thân nước, được sử dụng trên lâm sàng ở dạng một hỗn hợp racemic của hai đồng phân quang học dạng D và L với tỷ lệ bằng nhau. Nó là một chất cạnh tranh, đối kháng chọn lọc cao với receptor 1 và có một số tác động nhẹ tới mạch máu, có thể do sự tương tác theo cơ chế L - arginine/nitric oxid. Nebivolol có tác dụng bảo vệ chức năng hoạt động của tâm thất trái. Thuốc có xu hướng làm giảm tiền gánh và duy trì hoặc giảm hậu gánh. Nhịp tim và áp suất cuối tâm trương tâm thất trái đều giảm trong khi thể tích nhát bóp tăng lên và cung lượng tim được duy trì.
Dược động học
Hấp thu: Sau khi uống viên nén Nebivolol, thuốc đạt nồng độ đỉnh trong máu trong vòng 0,5 đến 2 giờ và khoảng thời gian này không bị ảnh hưởng bởi thức ăn. Sinh khả dụng theo đường uống trung bình khoảng 12% ở những người chuyển hoá thuốc tốt và đạt 96% ở những người chuyển hoá thuốc kém. Với một điều kiện ổn định và cùng một mức liều, nồng độ đỉnh trong huyết tương của Nebivolol ở dạng không đổi ở những người chuyển hoá thuốc kém cao gấp khoảng 23 lần so với những người có khả năng chuyển hoá thuốc tốt.
Phân bố: Trong huyết tương, cả hai đồng phân quang học của Nebivolol đều gắn với albumin. Tỷ lệ liên kết với protein huyết tương của SRRR-Nebivolol là 98,1% và của RSSS-Nebivolol là 97,9%.
Chuyển hoá: Nebivolol bị chuyển hoá mạnh, một phần thành những chất chuyển hoá dạng hydroxyl. Nebivolol bị chuyển hoá thông qua quá trình hydroxyl hoá vòng no và vòng thơm, N-dealkyl hoá và glucuronid hoá; sau đó các chất chuyển hoá dạng hydroxyl cũng liên kết với các hợp chất glucuronid. Sự hydroxyl hoá vòng thơm củaNebivolol phụ thuộc vào tính đa hình trong biểu hiện gen của enzym CYP2D6. Sự khác nhau giữa nồng độ đỉnh trong huyết tương của thuốc ở dạng không đổi và chất chuyển hoá có hoạt tính của nó là 1,3 đến 1,4 lần. Do có sự khác nhau trong tốc độ chuyển hoá, liều của Nebivolol nên luôn được điều chỉnh tuỳ theo từng bệnh nhân: những người chuyển hoá thuốc kém, vì vậy, cần được dùng liều thấp hơn.
Nồng độ ổn định trong huyết tương ở hầu hết các bệnh nhân (những người chuyển hoá thuốc nhanh) đạt được sau 24h đối với nebivolol và trong vòng một vài ngày đối với các chất chuyển hoá dạng hydroxyl của nó. Nồng độ trong huyết tương tỷ lệ thuận với liều trong khoảng 1 - 30mg. Tuổi không làm ảnh hưởng tới dược động học của Nebivolol.
Thải trừ: Ở những người chuyển hoá thuốc nhanh, thời gian bán thải của các đồng phân quang học của nebivolol trung bình là 10 giờ. Với những người chuyển hoá thuốc chậm thời gian bán thải kéo dài gấp 3 - 5 lần. Ở những người chuyển hoá thuốc nhanh, nồng độ huyết tương của đồng phân dạng SRRR hơi cao hơn nồng độ dạng RSSS. Với những người chuyển hoá thuốc chậm thì sự khác nhau này lớn hơn. Ở những người chuyển hoá thuốc nhanh, thời gian bán thải của những chất chuyển hoá dạng hydroxyl của cả hai dạng đồng phân trung bình là 24h và đối với những người chuyển hoá chậm thì khoảng thời gian này kéo dài gấp đôi.
Nebivolol là một thuốc chẹn 1 thân nước, được sử dụng trên lâm sàng ở dạng một hỗn hợp racemic của hai đồng phân quang học dạng D và L với tỷ lệ bằng nhau. Nó là một chất cạnh tranh, đối kháng chọn lọc cao với receptor 1 và có một số tác động nhẹ tới mạch máu, có thể do sự tương tác theo cơ chế L - arginine/nitric oxid. Nebivolol có tác dụng bảo vệ chức năng hoạt động của tâm thất trái. Thuốc có xu hướng làm giảm tiền gánh và duy trì hoặc giảm hậu gánh. Nhịp tim và áp suất cuối tâm trương tâm thất trái đều giảm trong khi thể tích nhát bóp tăng lên và cung lượng tim được duy trì.
Dược động học
Hấp thu: Sau khi uống viên nén Nebivolol, thuốc đạt nồng độ đỉnh trong máu trong vòng 0,5 đến 2 giờ và khoảng thời gian này không bị ảnh hưởng bởi thức ăn. Sinh khả dụng theo đường uống trung bình khoảng 12% ở những người chuyển hoá thuốc tốt và đạt 96% ở những người chuyển hoá thuốc kém. Với một điều kiện ổn định và cùng một mức liều, nồng độ đỉnh trong huyết tương của Nebivolol ở dạng không đổi ở những người chuyển hoá thuốc kém cao gấp khoảng 23 lần so với những người có khả năng chuyển hoá thuốc tốt.
Phân bố: Trong huyết tương, cả hai đồng phân quang học của Nebivolol đều gắn với albumin. Tỷ lệ liên kết với protein huyết tương của SRRR-Nebivolol là 98,1% và của RSSS-Nebivolol là 97,9%.
Chuyển hoá: Nebivolol bị chuyển hoá mạnh, một phần thành những chất chuyển hoá dạng hydroxyl. Nebivolol bị chuyển hoá thông qua quá trình hydroxyl hoá vòng no và vòng thơm, N-dealkyl hoá và glucuronid hoá; sau đó các chất chuyển hoá dạng hydroxyl cũng liên kết với các hợp chất glucuronid. Sự hydroxyl hoá vòng thơm củaNebivolol phụ thuộc vào tính đa hình trong biểu hiện gen của enzym CYP2D6. Sự khác nhau giữa nồng độ đỉnh trong huyết tương của thuốc ở dạng không đổi và chất chuyển hoá có hoạt tính của nó là 1,3 đến 1,4 lần. Do có sự khác nhau trong tốc độ chuyển hoá, liều của Nebivolol nên luôn được điều chỉnh tuỳ theo từng bệnh nhân: những người chuyển hoá thuốc kém, vì vậy, cần được dùng liều thấp hơn.
Nồng độ ổn định trong huyết tương ở hầu hết các bệnh nhân (những người chuyển hoá thuốc nhanh) đạt được sau 24h đối với nebivolol và trong vòng một vài ngày đối với các chất chuyển hoá dạng hydroxyl của nó. Nồng độ trong huyết tương tỷ lệ thuận với liều trong khoảng 1 - 30mg. Tuổi không làm ảnh hưởng tới dược động học của Nebivolol.
Thải trừ: Ở những người chuyển hoá thuốc nhanh, thời gian bán thải của các đồng phân quang học của nebivolol trung bình là 10 giờ. Với những người chuyển hoá thuốc chậm thời gian bán thải kéo dài gấp 3 - 5 lần. Ở những người chuyển hoá thuốc nhanh, nồng độ huyết tương của đồng phân dạng SRRR hơi cao hơn nồng độ dạng RSSS. Với những người chuyển hoá thuốc chậm thì sự khác nhau này lớn hơn. Ở những người chuyển hoá thuốc nhanh, thời gian bán thải của những chất chuyển hoá dạng hydroxyl của cả hai dạng đồng phân trung bình là 24h và đối với những người chuyển hoá chậm thì khoảng thời gian này kéo dài gấp đôi.
11. Quá liều và xử trí quá liều
Triệu chứng: Triệu chứng quá liều của các thuốc chẹn beta là: nhịp tim chậm, tụt huyết áp, co thắt phế quản và suy tim cấp tính.
Điều trị: Khi dùng quá liều, bệnh nhân cần được theo dõi chặt chẽ và được điều trị tích cực. Cần kiểm tra nồng độ glucose máu. Có thể ngăn chặn được sự hấp thu những phần thuốc còn lại trong đường tiêu hoá bằng cách rửa dạ dày hoặc cho bệnh nhân uống than hoạt và một loại thuốc tẩy. Hô hấp nhân tạo cũng có thể cần thiết. Nhịp tim chậm hay các phản ứng phế vị diện rộng có thể được điều trị bằng atropin và methyl atropin. Tụt huyết áp và shock nên được điều trị bằng huyết tương / các chất thay thế huyết tương và nếu cần, bằng catecholamine.
Các hiệu quả chẹn beta có thể bị trung hoà bằng cách truyền tĩnh mạch chậm isoprenalin hydrochloride bắt đầu với liều khoảng 5μg/phút, hoặc dobutamin với liều khởi đầu là 2,5μg/phút, cho đến khi thu được những hiệu quả mong muốn. Với những trường hợp không đáp ứng, isoprenalin có thể kết hợp với dopamin. Nếu biện pháp này vẫn không tạo được đáp ứng như mong muốn, có thể được cân nhắc để sử dụng biện pháp tiêm tĩnh mạch glucagon liều 50 - 100μg/kg. Nếu cần, có thể tiêm nhắc lại trong vòng một giờ và thậm chí cần thiết, có thể truyền tiếp tĩnh mạch glucagon với liều 70μg/kg/h. Với những trường hợp nặng nhất khi hiện tượng chậm nhịp tim không đáp ứng với điều trị, có thể đặt máy tạo nhịp cho bệnh nhân.
Điều trị: Khi dùng quá liều, bệnh nhân cần được theo dõi chặt chẽ và được điều trị tích cực. Cần kiểm tra nồng độ glucose máu. Có thể ngăn chặn được sự hấp thu những phần thuốc còn lại trong đường tiêu hoá bằng cách rửa dạ dày hoặc cho bệnh nhân uống than hoạt và một loại thuốc tẩy. Hô hấp nhân tạo cũng có thể cần thiết. Nhịp tim chậm hay các phản ứng phế vị diện rộng có thể được điều trị bằng atropin và methyl atropin. Tụt huyết áp và shock nên được điều trị bằng huyết tương / các chất thay thế huyết tương và nếu cần, bằng catecholamine.
Các hiệu quả chẹn beta có thể bị trung hoà bằng cách truyền tĩnh mạch chậm isoprenalin hydrochloride bắt đầu với liều khoảng 5μg/phút, hoặc dobutamin với liều khởi đầu là 2,5μg/phút, cho đến khi thu được những hiệu quả mong muốn. Với những trường hợp không đáp ứng, isoprenalin có thể kết hợp với dopamin. Nếu biện pháp này vẫn không tạo được đáp ứng như mong muốn, có thể được cân nhắc để sử dụng biện pháp tiêm tĩnh mạch glucagon liều 50 - 100μg/kg. Nếu cần, có thể tiêm nhắc lại trong vòng một giờ và thậm chí cần thiết, có thể truyền tiếp tĩnh mạch glucagon với liều 70μg/kg/h. Với những trường hợp nặng nhất khi hiện tượng chậm nhịp tim không đáp ứng với điều trị, có thể đặt máy tạo nhịp cho bệnh nhân.
12. Bảo quản
Ở nhiệt độ không quá 30°C.